Thơ về trăng là biểu tượng lãng mạn được nhiều thi nhân sử dụng. Từ dòng thơ cho thiếu nhi, thơ trữ tình đến kháng chiến, trăng luôn có cách xuất hiện riêng khiến bạn phải bất ngờ vì cách dùng của tác giả.
Thơ về trăng là biểu tượng lãng mạn được nhiều thi nhân sử dụng. Từ dòng thơ cho thiếu nhi, thơ trữ tình đến kháng chiến, trăng luôn có cách xuất hiện riêng khiến bạn phải bất ngờ vì cách dùng của tác giả.
Toàn bài thơ là những cung bậc cảm xúc buồn xen lẫn bất lực và xót xa. Những nỗi buồn mới và cũ ập đến như cơn bão dữ dội và tàn nhẫn. Hiện lên hình ảnh những đứa trẻ đáng thương, người bị bệnh tương tư không màng đến việc ăn uống.
Tác giả: Tào Tuyết Cần (曹雪芹 – Cáo Xuě Qín), thời Thanh.
滴不尽相思血泪抛红豆 Dī bù jìn xiāng sī xuè lèi pāo hóng dòu 开不完春柳春花满画楼 Kāi bù wán chūn liǔ chūn huā mǎn huà lóu 睡不稳纱窗风雨黄昏后 Shuì bù wěn shā chuāng fēng yǔ huáng hūn hòu 忘不了新愁与旧愁 Wàng bù liǎo xīn chóu yǔ jiù chóu 咽不下玉粒金波噎满喉 Yàn bù xià yù lì jīn bō yē mǎn hóu 瞧不尽镜里花容瘦 Qiáo bù jìn jìng lǐ huā róng shòu 展不开的眉头挨不明的更漏 Zhǎn bù kāi de méi tóu āi bù míng de gèng lòu 呀! Ya! 恰便似遮不住的青山隐隐 Qià biàn shì zhē bù zhù de qīng shān yǐn yǐn 流不断的绿水悠悠。 Liú bù duàn de lǜ shuǐ yōu yōu.
Trích bất tận, tương tư huyết lệ phao hồng đậu Khai bất hoàn, xuân liễu xuân hoa mãn hoạch lâu Thụy bất ổn, sa song phong vũ hoàng hôn hậu Vong bất liễu, tân sầu dữ cựu sầu Yến bất há, ngọc lạp kim ba ế mãn hầu Chiếu bất tận, lăng hoa kính lý hình dung sấu Triển bất khai để mi đầuNhai bất minh để canh lậu Nha! Kháp tiện tự: Già bất trú để thanh sơn ẩn ẩn Lưu bất đoạn để lục thủy du du.
Nhỏ không dứt, dòng huyết lệ tương tư rơi xuống như những hạt đậu đỏ Nở không trọn, liễu xuân, hoa xuân khắp chốn lầu son Ngủ không yên, mưa gió bên ngoài màn song sau buổi hoàng hôn Quên chẳng được, sầu mới lẫn sầu cũ Nuốt chẳng trôi, những gạo ngọc miệng vàng nghẹn đầy cổ họng Soi chẳng hết, hình dung gầy võ trong gương hoa ấu Đầu mày giương chẳng mở Canh khuya cứ lần nữa không sáng A! Vừa đúng như: Non xanh thấp thoáng không ngăn lại được Nước biếc mênh mang trôi đi không ngừng.
Còn chảy mãi lệ tương tư thẫm đỏ Hoa, liễu buồn thôi nở chốn lầu son, Không yên giấc, mưa gió ngoài song cửa Sầu với sầu, tìm đến cuối hoàng hôn Nuốt chẳng trôi, những lời vàng tiếng ngọc Gương sáng soi khuôn mặt đã hao gầy Mày chau lại, mong canh thâu chóng hết Chao ôi! Non xanh thấp thoáng không ngăn được Nước biếc mênh mông trôi chẳng dừng. (Lạc Nhạn dịch)
Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu,
Trời mơ trong cảnh thật huyền mơ.
Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt,
Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều,
Để nghe tơ liễu rung trong gió,
Và để xem trời giải nghĩa tình yêu.
Hàng thông lấp loáng đứng trong im,
Hư thực làm sao phân biệt được?
Cả trời say nhuộm một màu trăng,
Không một tiếng gì nghe động chạm
Lòng ta tản khắp bốn phương trời
Muôn ánh sao ngời chói thẳng băng
Muôn sợi hương trầm bay bối rối
Muôn vàn thần thánh sống cao sang.
Giây phút ôi chao nguồn cực lạc
Miệng lưỡi khô khan, hết cả thèm.
Tình yêu là chủ đề khơi gợi cảm hứng muôn thưở trong thơ ca, những nhà thơ tuyển đỉnh trong công cuộc sáng tác thơ ca thể hiện tình cảm đều có ở bất kì quốc gia nào đặc biệt ở Trung Quốc.
Xem ngay: Từ vựng tiếng Trung cơ bản.
Tháng 8 đã đượm buồn lại thêm những cơn mưa bất chợt lại càng thêm não nề. Ta ngắm những làn mưa, ký ức buồn vui đua nhau hiện về. Bóng dáng em cũng hiện dần trong tâm trí, và nỗi cô đơn của ta càng rõ rệt. Cái cô đơn của một ngày mưa tháng 8 rất khác. Cô đơn không phải giữa dòng người tấp nập mà không tìm được ai thuộc về mình mà là cái cô đơn giữa thiên nhiên rộng lớn lạnh lẽo đầy lãng mạn.
Thu với mưa kéo ùa về tháng tám
Ta cố khuất sau buổi chiều không nắng
Thôi cứ mưa , úa nhầu tháng tám
Đèn khuya không đủ sáng phố sương
Bóng thu mưa nhạt ướt cung đường
Đêm lóng cóng bước lên màu đất xám.
Ngày cũng vậy, rơi buồn thăm thẵm
Sợi nắng chiều gãy vỡ chông chênh
Vạn vật đi về những ngã không tên.
Khuya quạnh lắng hồn thu muôn thuở.
Những vui buồn buông thả theo mây
Tiếng nhạc chiều, mưa, nắng đắm say
Nghe thao thức đêm trường vời vợi...
Con thuyền trôi lả khúc Chiêu Quân
Bến sông Tương dõi mắt bâng khuâng
Mưa lặng lẽ, ta đêm trần, ở lại...
Mưa tháng tám giọt tình yêu phơ phất
Nhớ em còn xa khuất giữa trời xa
Anh mải mê trong giấc mộng la đà
Sương mây trắng nhạt nhòa trên bến nhớ
Về đây em! Nối tình xa một thuở
Ru khúc đời dang dở giữa tim yêu
Với niềm vui rực rỡ nắng nghiêng chiều
Muôn hoa nở yêu kiều trên lối bước
Cho em mãi dáng xuân còn tha thướt
Tóc mai dài bóng mượt tuổi thơ ngây
Và bờ môi tươi thắm tỏa hương say
Hồng đôi má, xinh xinh màu mắt biếc
Ngào ngạt thắm nụ hoa tình tha thiết
Cạn men nồng tinh khiết giữa bao la
Vườn địa đàng ghi dấu bước chân sa
Mối tơ lòng thắt lại giữ đời nhau
Dẫu nghìn sau chìm đắm cuộc bể dâu
Yêu thương vẫn dâng trào mưa tháng tám.
Lâu lắm rồi tôi được ngắm trăng quê
Trăng đẹp lắm lảm mê người xa xứ
Quê hương tôi đang đắm say giấc ngủ
Bước lặng thầm đường cũ ánh trăng thu
Đêm nay đây trăng sáng trong đêm nhẹ
Kỷ niệm nào khe khẽ thức trong tim?
Đây đống rơm, khóm chuối ta trốn tìm
Kia cầu ao nơi ta ngồi hóng mát
Lũy tre xanh rì rào ngân tiếng hát
Gió thu về thơm ngát lúa quê hương
Quê hương ơi! Sao quá đỗi thân thương
Đượm lòng tôi bao vấn vương nỗi nhớ
Ánh trăng quê vẫn nồng nàn hơi thở
Ánh trăng vàng vẫn lấp lánh đê mê
Bao ký ức cứ tràn trề tuôn chảy
Đâu xa cách trái tim hồng luôn cháy
Nghĩa xóm làng tình ấy đẹp như trăng.
Trăng trên biển với cơn sóng vỗ rì rào luôn là nguồn cảm hứng để những ai yêu thơ ca tạo ra các tác phẩm hay. Đặc biệt là kết hợp hình ảnh trăng và biển trong các bài thơ của mình.
Trăng trong các bài thơ về tình yêu là hình ảnh không thể thiếu. Hình ảnh mặt trăng giúp cho các bài thơ về tình yêu trở nên có hồn và cảm xúc hơn.
Thu Phong Từ là một mùa thu buồn trong tình cảnh này khiến nhà thơ buồn bã, bơ vơ – Không muốn tách rời và nỗi nhớ mong trong lòng khiến nhà thơ tiếc nuối buổi đầu quen biết.
Tác giả: Lý Bạch (李白 – Lǐ Bái), thời Thịnh Đường.
秋风清, Qiūfēng qīng, 秋月明。 Qiūyuè míng. 落叶聚还散, Luòyè jù hái sàn, 寒鸦栖复惊。 Hán yā qī fù jīng. 相思相见知何日? Xiāngsī xiāng jiàn zhī hé rì? 此时此夜难为情。 Cǐ shí cǐ yè nánwéiqíng.
Thu phong thanh, Thu nguyệt minh. Lạc diệp tụ hoàn tán, Hàn nha thê phục kinh. Tương tư, tương kiến tri hà nhật? Thử thì thử dạ nan vi tình.
Gió thu thanh, Trăng thu sáng. Lá rụng lúc tụ lúc tán, Quạ lạnh đang đậu bỗng rùng mình. Nhớ nhau không biết ngày nào gặp? Lúc ấy đêm ấy chan chứa tình.
Gió thu lành, Trăng thu thanh. Lá rơi tụ lại tán, Quạ lạnh chợt rùng mình. Thương nhớ, biết bao giờ mới gặp ? Lúc này đêm ấy ngẩn ngơ tình. (Nguồn: Đường thi tuyển dịch, NXB Thuận Hóa, 1997)
Xem thêm: Top 11 diễn đàn tiếng Trung chất lượng nhất.
Thơ: 屋上春鸠鸣, 村边杏花白. 持斧伐远扬, 荷锄觇泉脉. 归燕识故巢, 旧人看新历. 临觞忽不御, 惆怅远行客.
Phiên âm:wūshàng chūn jiū míng,cūn biān xìng huā bái.chí fǔ fá yuǎnyáng,hè chú chān quán mài.guī yàn shì gù cháo,jiù rén kàn xīn lì.lín shāng hū bù yù,chóuchàng yuǎn xíng kè.
Dịch nghĩa:Xuân cưu kêu mái nhà Hạnh trắng vườn đơm hoa Rìu chặt cành xa vướng Cuốc khai mạch suối ra Én về hay tổ cũ Lịch mới người xem qua Rót rượu mà chưa uống Nghĩ thương người chốn xa
Bài thơ với nội dung kể về một lão nông chịu áp lực nặng nề của sưu cao, thuế má, cuối cùng sống cuộc đời chỉ dựa vào hái quả ăn no, phơi bày cuộc sống nông dân của người nông dân dưới sự bóc lột của tô thuế trong khi giới doanh nhân giàu có lại sống phung phí xa hoa. Vạch trần tội ác của những thói hung hãn, hiếu chiến của giai cấp thống trị, đồng thời phản ánh chân thực thực chất của đời sống xã hội ngày xưa.
Tác giả: Trương Tịch (張籍 – Zhāng Jí), Thời gian Trung Đường (766-827).
老农家贫在山住,耕种山田三四亩。 Lǎo nóngjiā pín zài shān zhù, gēngzhòng shāntián sānsì mǔ. 苗疏税多不得食,输入官仓化为土。 Miáo shū shuì duō bùdé shí, shūrù guān cāng huà wéi tǔ. 岁暮锄犁傍空室,呼儿登山收橡实。 Suìmù chú lí bàng kōng shì, hū er dēngshān shōu xiàng shí. 西江贾客珠百斛,船中养犬长食肉。 Xījiāng jiǎ kè zhū bǎi hú, chuán zhōng yǎng quǎn zhǎng shíròu.
Lão nông gia bần tại sơn trú, Canh chủng sơn điền tam tứ mẫu. Miêu sơ thuế đa bất đắc thực, Thâu nhập quan thương hoá vi thổ. Tuế mộ sừ lê bàng không thất, Hô nhi đăng sơn thu tượng thực. Tây Giang cổ khách châu bách hộc, Thuyền trung dưỡng khuyển trường thực nhục.
Ông lão nhà nghèo ở trong núi, Cày cấy đất núi được ba bốn mẫu. Lúa ít đóng thuế nhiều nên không có lúa để ăn, Gom về kho quan để mốc thành đất. Cuối năm, cày bừa để dựa góc nhà trống không, Ông kêu con cháu lên núi hái hạt dẻ rừng về ăn. Nhà buôn ở Tây Giang kho báu có cả trăm hộc, Chó nuôi trên thương thuyền ngày nào cũng có thịt ăn.
Ông lão nghèo nhà trong vùng núi Cày cấy ba bốn mẫu đất hoang Thuế nhiều không lúa để ăn Gom về để mục kho quan dư thừa Đến cuối năm cày bừa dựa vách Hạt dẻ rừng tìm cách thay cơm Nhà buôn châu báu cả trăm Trên thuyền chó có thịt ăn hàng ngày. (Nguồn: Thivien.net)